Giỏ hàng 0-SP

Gan nhiễm mỡ không do rượu

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (Non-alcoholic fatty liver disease: NAFLD) bao gồm một số bệnh về gan, từ gan nhiễm mỡ đơn thuần đến viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (Nonalcoholic steatohepatitis: NASH) và xơ gan. Hiện nay bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được xem là nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng men gan. Cách phòng ngừa và điều trị tốt nhất là nắm rõ diễn tiến và triệu chứng ban đầu của bệnh.

1. Gan nhiễm mỡ không do rượu là gì?

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) thể hiện ở các dấu hiệu:

  • Bệnh nhân có gan nhiễm mỡ trên chẩn đoán hình ảnh (siêu âm bụng, CT scan, MRI...) hoặc trên mô học.
  • Thường đi kèm theo những yếu tố nguy cơ như béo phì, tiểu đường tuýp 2, rối loạn mỡ máu.
  • Không bao gồm các nguyên nhân gây gan nhiễm mỡ thứ phát khác như uống rượu bia, nhiễm viêm gan siêu vi C, loạn dưỡng mỡ, bệnh Wilson, thiếu ăn, dinh dưỡng ngoài đường miệng kéo dài, do thuốc (amiodarone, tamoxifen, methotrexate, corticosteroids, valproate, anti-retroviral...), gan nhiễm mỡ cấp ở phụ nữ có thai, khiếm khuyết chuyển hóa bẩm sinh.

Sở dĩ dùng từ “không do rượu” là bởi vì NAFLD và NASH đều xảy ra ở những người không uống rượu. Tất cả các giai đoạn của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu đều có chung dấu hiệu tẩm nhuận mỡ ở trong tế bào gan. Trong viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) mỡ tẩm nhuận kết hợp với mức độ viêm gan và xơ hoá gan. Tiến triển của bệnh gan nhiễm mỡ có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

2. Đối tượng nguy cơ của gan nhiễm mỡ không do rượu

Béo phì
Người béo phì thường có nguy cơ mắc gan nhiễm mỡ không do rượu cao hơn bình thường

Đối tượng dễ mắc NAFLD thường bao gồm nhóm người bị béo phì, tiểu đường tuýp 2, rối loạn mỡ máu, hội chứng chuyển hóa, hội chứng buồng trứng đa nang, hội chứng ngưng thở khi ngủ, suy giáp, suy tuyến yên, suy tuyến sinh dục, cắt tá tràng tụy.

Những người bị rối loạn mỡ máu: tỉ lệ phân tử mỡ (triglycerid) trong máu cao, HDL cholesterol máu thấp cũng dễ mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Tỷ lệ bệnh NAFLD trong nhóm bệnh nhân rối loạn mỡ máu chiếm khoảng 59%.

Tỷ lệ bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và mức độ bệnh gan tăng theo tuổi, nguy cơ mắc NAFLD ở nam giới cao gấp 2 lần nữ giới, bệnh cũng khác nhau giữa các sắc tộc. Điều này được giải thích là do sự khác biệt về yếu tố gien.

3. Diễn tiến của gan nhiễm mỡ không do rượu

Diễn tiến của NAFLD bắt đầu từ giai đoạn cơ bản nhất là gan nhiễm mỡ. Bệnh gan nhiễm mỡ là diễn tiến bất thường đầu tiên của NAFLD. Gan nhiễm mỡ đơn thuần liên quan đến sự tích tụ mỡ trong tế bào gan nhưng không có hiện tượng viêm hoặc xơ hoá. Thực ra, mỡ cấu tạo bởi các phân tử mỡ (triglycerid) tích tụ trong các túi rất nhỏ nằm trong các tế bào gan. Sự tích tụ mỡ trong tế bào gan không giống như các tế bào mỡ (adipocyte) cấu tạo nên cơ thể chúng ta. Gan nhiễm mỡ vốn là bệnh lành tính bởi tự thân nó không gây bất kỳ tổn thương gan nào đáng kể.

Tuy nhiên giai đoạn kế tiếp và nguy hiểm hơn của NAFLD là viêm gan nhiễm mỡ (NASH). Rất may là chỉ một phần nhỏ bệnh nhân mắc gan nhiễm mỡ có nguy cơ tiến triển thành NASH. Viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến sự tích tụ mỡ trong tế bào gan giống như trong viêm gan, và tế bào bị viêm có thể gây tổn thương tế bào gan. Trong khi bệnh gan nhiễm mỡ là bệnh lành tính thì ngược lại viêm gan nhiễm mỡ lại có thể dẫn đến xơ gan không hồi phục. Xơ gan là giai đoạn nặng nhất và sau cùng của diễn tiến NAFLD.

4. Triệu chứng gan nhiễm mỡ không do rượu

Mệt
Nếu bạn cảm thấy mệt mỏi kéo dài, đầy bụng, buồn nôn thì hãy chú ý theo dõi vì đó có thể là dấu hiệu cảnh báo gan nhiễm mỡ không do rượu

Người mắc bệnh gan nhiễm mỡ nói chung hầu như sẽ không có triệu chứng gì. Chỉ có một vài người cảm thấy hơi mệt mỏi và suy nhược, hoặc có cảm giác tức nặng, đau ở vùng hạ sườn phải. Do vậy, bệnh thường được phát hiện một cách tình cờ khi người bệnh đi khám sức khỏe hoặc khi siêu âm.

Các dấu hiệu cảnh báo cần lưu ý là cảm thấy chán ăn, ăn không ngon, mệt mỏi kéo dài và buồn nôn, đầy bụng. Đau bụng trong NAFLDNASH thường là do sự căng trướng của gan vì gan lớn hoặc do gan bị viêm. Tuy nhiên, giai đoạn đầu thường không có triệu chứng, khi gan nhiễm mỡ kéo dài, triệu chứng thường thấy là gan to kín đáo, men gan và phosphatase kiềm tăng vừa phải; trong thời điểm này thường không bộc lộ triệu chứng ra ngoài.

Trong các bệnh gan do uống rượu bia, viêm gan B và C vốn có triệu chứng rất trầm trọng, có thể dẫn đến suy gan cấp tính thì lại không thấy trong NAFLD và NASH.

Dấu hiệu kinh điển của đề kháng insulin thường dựa vào dấu hiệu khám lâm sàng trong NAFLD và NASH. Như đã nói ở trên, chứng béo phì (đặc biệt ở vùng bụng) là dấu hiệu thường gặp nhất. Hơn nữa, bệnh nhân bị tiểu đường tuýp 2 lâu ngày sẽ dễ mắc các biến chứng như bệnh ở võng mạc, huyết áp cao, suy thậnbệnh mạch vành. Chứng gai đen (Acanthosis nigricans) cũng là dấu hiệu điển hình của đề kháng insulin và thường gặp ở trẻ em bị NASH.

Giai đoạn xơ gan thường sẽ xảy ra muộn (từ 50-60 tuổi trở đi), được xem là hậu quả của sau nhiều năm bị NASH. Dấu hiệu của xơ gan còn hồi phục được bao gồm gan lớn, cứng, mạch máu hình sao, nhỏ ở da, lòng bàn tay có ban đỏ, móng tay trắng nhợt, rụng tóc, lông, trướng tĩnh mạch ở bụng, ở phụ nữ thì kinh nguyệt không đều hoặc mất kinh còn ở nam giới thì dịch hoàn teo nhỏ và vú sưng to. Dấu hiệu xơ gan mất bù bao gồm tất cả các triệu chứng trên (trừ việc gan không lớn mà teo lại), ngoài ra còn các triệu chứng khác như phù chi dưới, bụng báng, xuất huyết do vỡ tĩnh mạch thực quản và lú lẫn.

Hiện nay, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng men gan. Tỷ lệ bệnh NAFLD ở châu Âu chiếm khoảng 35%, ở châu Á khoảng 25%.

Khoảng 15 - 30% dân số mắc bệnh NAFLD, có đến 12 - 40% trong nhóm bệnh nhân này sẽ diễn tiến tới viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH), và khoảng 15 - 25% bệnh nhân NASH sẽ diễn tiến đến xơ gan, khoảng 7% trong nhóm bệnh nhân xơ gan sẽ tiến triển tới ung thư gan.